Episode 1 - The Dark Room
Or aespa knights and the quest for the Holy Guess?
TL; DR: Dành cho ai thích tìm meta-clue trong một trò chơi đuổi bắt clue. Cần có hiểu biết nhất định về thế giới quan của nhóm nhạc aespa. Các thông điệp rút ra đều là sản phẩm của công ty giải trí SM, không phản ánh quan điểm của người viết. Still, read at your own risk.
Nhân dịp comeback, aespa tham gia một show giải trí với nội dung xoay quanh trò chơi Room Escape – một trò chơi nhập vai nơi người chơi trở thành các nhân vật bị nhốt trong một căn phòng và phải tìm cách thoát ra đó trong thời gian cho trước. Công ty SM và Arcade Pang đã hợp tác thiết kế một phiên bản Escape Kwangya đặc biệt dành cho các thành viên của aespa dựa trên chính concept của nhóm nhạc này …
Ngay từ lúc có teaser, phần 1 chương trình đã được giới thiệu là xây dựng trên các khái niệm về nhiệm vụ ảo giác (Hallucination Quest) vốn được mô tả tỉ mỉ hơn trong phần 2 về vũ trụ văn hoá SM (SM Cultural Universe - SMCU) ở video này.
Song thực tế thì phần 1 này đã tham chiếu đủ cả 2 tập video SMCU1 (ở đây) và SMCU2 ở dưới:
Các căn phòng trong trò chơi Escape Kwangya cụ thể sẽ lần lượt ứng với các diễn biến của vũ trụ SMCU như sau:
Trong phòng 1, cửa chỉ mở khi aespa ghép hoàn chỉnh tấm bản đồ vị trí xuất hiện của các hố đen tử thần (sinkhole), chuỗi hiện tượng tiên báo tình trạng bất ổn của thế giới ở cảnh đầu video SMCU1.
Sau đó ở mở đầu SMCU2, các thành viên aespa đã lên đường tiến vào thế giới ảo mang tên Kwangya để sửa chữa hiện tượng bất ổn trên. Kwangya tiếng Hàn có nghĩa là “wilderness - sự hoang dã” và tương ứng, tường căn phòng thứ 2 phủ đầy dây leo và dương xỉ.
Cũng tại phòng này, các thành viên sẽ tìm ra những mảnh ghép ứng với biểu tượng nhân vật hành động của 4 người, phù hợp diễn biến trong SMCU2 là aespa lần đầu trải nghiệm bản ngã mới tại Kwangya.
Cuối cùng là phòng 3, aespa thoát khỏi đây nhờ tìm ra 2 từ khoá: Open và Noid, với Noid được coi là tiếng lóng cho Paranoid. Phòng này, không nghi ngờ gì nữa, ứng với phân cảnh về nhiệm vụ ảo giác, trung tâm cốt truyện của SMCU2. Đáp án ở đây phản ánh chính phương thức trong truyện mà aespa đã dùng để vượt qua nhiệm vụ ấy: bằng cách “open noid”, hay là lật tẩy tất cả những sợ hãi này đều chỉ là ảo giác.
Đến đây, nếu như trên thôi thì tôi vẫn chưa muốn vượt cơn lười để viết về một video mà có thể chỉ fan aespa quan tâm này.
Tôi chỉ có động lực viết bài này khi nhận ra thêm một thông điệp nữa, là một điều mà cho dù không follow aespa, những ai follow tôi vẫn có thể muốn cùng phân tích.
Xen giữa các thử thách giải đố và phá khoá là những đoạn chia sẻ cảm nghĩ của các thành viên trong hành trình truy tìm bí mật . Sau vài cảnh đầu giới thiệu về phòng 1, Giselle thú nhận: Căn phòng này có cảm giác là lạ, giống như khi mới đến nhà của một người bạn. Còn Winter thì nói: Phòng này có mùi giống bụi.
Và bỗng nhận thấy một cảm giác vu vơ quen thuộc đã từng gặp bao lần ở bao sản phẩm văn hoá rồi không nhớ nữa, rằng cái không gian trò chơi này dường như còn đang chập chờn hứa hẹn những bí mật nào đó, những bí mật từng bị vùi sâu sau lớp kính mờ của quá khứ.
Thực tế đúng như vậy.
Hãy thử xem, trong căn phòng âm u ấy, aespa đã tìm ra những thứ gì:
Một cái túi, bên trong chứa một cuốn sổ và một cái bánh dưa (melon bread).
Họ cũng tìm thấy một tấm poster về aespa trên chuyến tàu Kwangya, nhưng bị rách một góc, chỗ bị rách ứng với chữ SYNK, đây cũng là từ khoá quan trọng để mở ra ngăn kéo đầu tiên
Trong ngăn kéo này, các bạn trẻ aespa tìm được rất nhiều sách, thuộc một bộ sưu tập những ghi chép nhật ký khám phá (Exploration journal) trải từ những năm 70 đến 90 của thế kỷ trước. aespa cũng kịp thời phát hiện ra danh sách bị thiếu mất năm 1972.
Chưa hết, cuốn sổ trong túi ban nãy cũng từng nhắc đến 1972. Tất nhiên, đây lại là một từ khoá nữa, giúp mở ngăn kéo thứ hai chứa cuốn sách bị thiếu.
Cuốn sách này thực chất là một hộp rỗng trong chứa 2 bức ảnh về hố tử thần, 2 bức này có lỗ để móc được lên tấm bản đồ lớn treo sẵn ở trên tường.
Song trên tường vẫn còn 2 móc trống, ngụ ý hẳn cần tìm 2 ảnh nữa, có lẽ giấu trong ngăn khoá cuối cùng.
Trên tủ chứa các ngăn khoá có một tạp chí đang mở, tiêu đề tạp chí nhắc đến một nhà thám hiểm, tên che đi một phần kèm theo một dấu hỏi.
aespa đã đoán đúng danh tính nhân vật bí ẩn này là John, một tên đàn ông tiếng Anh phổ biến, cũng là chìa khoá mở ngăn kéo chứa đúng 2 bức sinkhole còn lại.
Cuối cùng, các bức ảnh đã được treo vào đúng vị trí các móc trên bản đồ như sau.
Đến đây thì mọi thứ có vẻ là khá vừa vặn, cửa phòng cũng đã bật mở, chào đón aespa giải xong thử thách đầu tiên.
Tôi vẫn chỉ còn một chút thắc mắc:
Vậy cái túi họ tìm thấy ngay ban đầu, trong đó có bánh dưa và cuốn sổ ghi chú thì để làm gì?
Tất nhiên cuốn sổ có hữu dụng khi nhắc đến cụm 1972, song kể cả không như thế aespa vẫn sẽ tìm ra từ này nhờ phát hiện cuốn sách bị thiếu. Và còn cái bánh dưa nữa? Sao lại thừa ra không phải một thứ phổ thông, mà khá là … cắc cớ như vậy?
Liệu đây có thực là những món đồ thừa thãi, thứ mà trong điện ảnh còn gọi là kỹ thuật MacGuffin - các chi tiết được chèn vào chỉ nhằm khơi gợi cho câu truyện diễn ra, song đến cuối phim thì sẽ bị bỏ quên vì turn out ra là chẳng thực cần thiết?
Tuy nhiên, chẳng có gì thừa thãi trong một sản phẩm của SM.
Hãy thử tìm những manh mối ngầm ẩn khác, cùng giải cái ngăn khoá vô hình này, cái ngăn khoá cất giấu đáp án cuối cùng sẽ quán xuyến ý nghĩa cho mọi đáp án từng thấy trong căn phòng này.
Quay lại về cái bánh và cuốn sổ.
Cuốn sổ tay có ghi vài dòng vắn tắt như sau:
Smell of clues
I dont remember how long I walked
This is a deep forest
Từ dòng đầu tiên đã có thể ring some bell.
Clues? Có mùi? Và cuốn sổ thì đang cùng đặt trong túi với một cái bánh dưa (melon bread)?
Đáp án ở đây chính là breadcrumbs – vừa mang nghĩa “vụn bánh”, vừa mang nghĩa bóng tương đương với “clue - manh mối”. Chẳng phải, breadcrumb là thứ manh mối duy nhất thực sự có mùi hay sao?
Và theo cách ấy, cuốn sổ đã ngụ ý cái bánh đặt cạnh nó không thừa thãi mà chắc chắn là một chỉ dẫn để tìm ra tiếp những bí mật của căn phòng.
Thực ra 2 câu sau trong sổ khi phân tích sẽ thấy càng củng cố giả thuyết ấy, nhưng vì chúng còn mang một nghĩa mở rộng hơn, đủ dài và khá thú vị, nên tôi sẽ triển khai ở một bài khác (Still, đừng tin tôi quá).
Quay về với manh mối kỳ lạ của chúng ta, cái bánh dưa.
Cái bánh có dán một tờ giấy đề chữ:
Dont rip it off – Đừng xé nó ra
Nhớ lại một chi tiết khác trong phòng: Bức ảnh aespa trên chuyến tàu Kwangya, bị xé mất một mẩu. Mẩu xé từng là đáp án giúp giải ngăn khoá đầu tiên – từ bị xé là chữ SYNK. Trong vũ trụ quan của aespa, SYNK là trạng thái liên lạc trò chuyện được giữa người và bản ngã thay thế của họ trong thế giới ảo, bản ngã này còn gọi là ae của người đó và nó vốn được tạo nên từ các dữ liệu họ up lên mạng. Cơ bản thì SYNK đặc tả một dạng kết nối giữa 2 thế giới thực và ảo.
Song liệu có liên kết gì giữa mẩu xé đề chữ SYNK đó và cái bánh cấm xé ở đây chăng?
Liệu cái bánh có phải cũng ẩn dụ cho một SYNK?
Tức là, một kết nối giữa 2 thế giới nào đó?
Và thế là, trong căn phòng nhỏ hẹp tù mù nơi 4 cô gái kia đang loay hoay, bỗng vụt sáng cái manh mối đầu tiên song cũng quan trọng nhất, mà sẽ gieo hạt giống inception soi rọi toàn bộ quá trình tìm kiếm sau này.
Bánh dưa là một loại bánh mà ngay từ tên gọi (melonbread) đã cho thấy nguồn gốc được phát minh dựa trên kỹ thuật làm bánh mì (bread).
Mà trong lịch sử nhân loại, bánh mì lại xuất hiện trong một nghi thức kết nối khá nổi tiếng sau:
Nghi thức kết nối giữa Con người và Thiên Chúa. Hay nói cách khác, giữa thế giới của vật lý và thế giới của tinh thần.
Kito giáo có một nghi lễ gọi là Bí tích Thánh Thể nhằm vinh danh Chúa, tại đó mọi người ăn bánh uống rượu vang đỏ, vừa gợi nhắc những gì 12 tông đồ đã làm trong Tiệc Ly (bữa tiệc cuối cùng), vừa ngụ ý đang cùng nhau hấp thụ thân thể (bánh mì) và máu (rượu) của Jesus, mà nghĩa bóng là đón nhận các tín niệm cứu rỗi linh hồn đến từ Ngài.
Đến đây thì, khi đã phát hiện ra cái bánh-SYNK này chính là tham chiếu tới Kito giáo, mọi manh mối tìm được trước đây trong phòng, đều có thể soi rọi lại dưới một ánh sáng khác.
Thực ra thì tôi đã ngờ đến điều này từ cái lúc phát hiện ra mấy cuốn Nhật ký khám phá cũ kỹ giấu trong ngăn kéo thứ nhất.
Các cuốn sách này đều thuộc cùng một series tên là European Classical Ancient Empire, series này lại nằm trong dòng tuyển tập Empire Classic Books. Bản thân căn phòng với các phong cách thiết kế tủ, đèn, giá sách cũng khá điển hình cho một phòng đọc sách thời châu Âu trung đại. Đến giờ tôi lại cũng đã hình thành một thói quen nhận dạng mẫu, ấy là cứ tham chiếu châu Âu trung đại thì kiểu gì rồi cũng sẽ dây dưa sang Kito giáo.
Mấy cuốn Nhật ký khai phá kia càng giúp ngờ ngợ về cả cái phòng này sắp ngụ ý thông điệp gì. Mô tip ẩn dụ kiểu lần theo dấu chân khai phá thế giới này đã kịp được sử dụng trong kha khá tác phẩm tham chiếu Kito khác, tôi đã từng phân tích một ví dụ như vậy trong review Spider man: Far from home và sẽ trích dưới đây một đoạn:
Ở Escape Kwangya, ta sẽ bắt gặp một tự sự tương tự. Đại ý là, sự lan rộng của Kito giáo, từng có lúc mang ý nghĩa tích cực như hải đăng toả chiếu toàn thế giới, đến một thời điểm lại bị corrupted để trở thành một công cụ xâm lăng.
Cụ thể là, trong cuốn sách rỗng ruột ta tìm ra 2 cái ảnh sinkhole, sau đó tìm ra nốt 2 ảnh cuối từ ngăn khoá cuối cùng. Các ảnh sinkhole này, nhìn bề mặt thì nhắc về sự kiện trong SMCU1, các hố tử thần bỗng đột ngột xuất hiện tại nhiều nơi trên thế giới, đường phố bỗng nứt ra và xuất hiện các hố sâu hun hút.
Và trên tấm bản đồ kết quả, 4 ảnh ứng với các sinkhole này được treo ở những chỗ nào?
1. Châu Âu;
2. Châu Úc;
3. Bắc Mỹ;
4. Nam Mỹ.
Không có lý gì nếu muốn nhấn mạnh một hiện tượng mang tính chất toàn cầu mà lại vô tình bỏ quên châu Phi và châu Á, hai lục địa đông dân số 1. Nói cách khác, sự bỏ qua 2 lục địa này chỉ hiểu được cố tình, hay là cố tình chỉ chọn cho sinkhole xuất hiện ở các lục địa còn lại.
Mà mấy lục địa còn lại trên kia thì là gì đây ngoài mấy cái vùng địa lý mà Thiên Chúa giáo phát triển mạnh mẽ nhất, bởi vì trong số này, 3 lục địa là nơi cư ngụ chủ yếu của dân da trắng, nốt vị trí còn lại là Nam Mỹ, thì cũng ghi dấu chứng tích khai hoá vẻ vang của Colombus và con cháu, khi Thiên Chúa giáo đã tràn tới và lấn át các tín ngưỡng của người bản địa, ngôn ngữ Latin tràn tới thay thế hoàn toàn ngôn ngữ bản địa, đến độ mà cả một vùng lãnh thổ rộng lớn trù phú của những người Inca và Maya cổ xưa ngày nay lại được đặt tên theo một loại ngôn ngữ ngoại lai: Châu Mỹ Latin. Nói cách khác, một nền văn minh đã hoàn toàn bị xoá sổ và chịu thần phục một nền văn minh khác.
Căn phòng của chúng ta còn mang phong cách nội thất phương Tây cổ điển, chứa đầy các khảo cứu về các đế chế phương Tây và thuộc địa của họ, cả căn phòng toát ra mùi của bụi, chính là ẩn dụ cho lục địa châu Âu, còn được gọi là “lục địa cổ”, là nơi khởi phát của Kito để sau đó lan ra toàn thế giới, đồng thời cũng chính là nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất khi đắm chìm trong đêm trường Trung Cổ. Giờ thì ta cũng hiểu vì sao trong 3 căn phòng cần khám phá, riêng phòng 1 này lại có ánh sáng tối tù mù như vậy.
Như vậy là, nơi khởi phát của Kito được ví von là căn phòng tối om đầy bụi, còn sự truyền bá của Kito tới các lục địa thì ví von là các sinkhole, cũng tựa như trong Spiderman thì sự xuất hiện của Kito được so sánh với một cơn lốc, một vụ hoả hoạn, một trận động đất, và cầu London sụp đổ. In short, đều là thảm hoạ.
À mà đến đây quên chưa nhắc, thế 2 cái ảnh cuối cùng được tìm ra nhờ đâu nhỉ?
Nhờ mở ngăn khoá có đáp án là John – nhà thám hiểm được nêu tên trên tạp chí.
Well, và đố bạn biết kết nối giữa Jesus với bánh mì xuất hiện trong Kinh Thánh lần đầu ở chỗ nào ?
Không đâu khác, là trong The Book of John – biết đến ở Việt Nam như Sách phúc âm của Gioan Tông đồ (John the Apostle)
Như vậy, đến đây mọi mảnh ghép đã hoàn chỉnh:
SYNK và Bánh mì, tông đồ John và nhà thám hiểm John, phúc âm và nhật ký khám phá, 2 bóng đèn trên cao toả rọi trong tấm poster aespa và sự lan toả của Kito, các địa điểm mang sinkhole và các lục địa thờ Chúa, mẩu poster quan trọng đã rách và sự ngắt kết nối giữa con người và Thiên Chúa.
Theo cách ấy, căn phòng đầu tiên, được đặt tên hữu ý là “the secret base” mà có thể hiểu theo là cả “Tầng hầm bí mật” lẫn “Nền tảng bí mật”, sẽ chứa thông điệp ngầm ẩn như sau:
[Disclaimer: Đây là thông điệp của SM mà tôi chỉ đang dịch lại]
Kito giáo ban đầu xuất phát là một học thuyết tiến bộ, giúp con người hoà nhập với các thông điệp cứu chuộc của Chúa. Nhưng đến một thời điểm nào đó trong lịch sử, có những thế lực đã lợi dụng sự phát triển của Kito giáo để thực hiện những động cơ khác. Tông đồ John, người chuyên tâm ghi lại các huyền tích về Chúa, tới thế kỷ 20 này đã chuyển hoá thành nhà thám hiểm John ghi lại các kỳ quan bắt gặp trên hành trình người phương Tây chinh phục Tân thế giới. Tương tự, các phái đoàn truyền giáo mộ đạo cùng các hiệp sĩ thánh chiến với lý tưởng kiếm tìm Chén Thánh, qua nhiều thế kỷ, đã bị biến tướng thành những đội quân viễn chinh, gián điệp, tay sai tuyên truyền cho sự bành trướng đế chế của các vương triều châu Âu trung đại, nguyên mẫu cho sự lan rộng của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc sau này.
Phúc âm của John khi ấy từ một văn bản thần thánh bị hạ cấp thành các nhật trình khám phá, thứ mà tuy có lúc được coi như chứng tích khai hoá và khảo cứu của người da trắng phương Tây, ngày nay lại đa phần bị đánh giá là di sản của hành trình xâm lược.
Theo cách ấy, liên kết SYNK thầm kín thiêng liêng giữa người và Chúa đã bị làm mục ruỗng. Mẩu giấy cấm kỵ trên cái bánh bị xé toang. Thế giới rơi vào SYNKOUT hay chập kết nối. Tại mọi nơi tôn giáo này thống trị, mặt đất sụt lún, mở ra những hố thẳm, hứa hẹn địa ngục thay cho thiên đàng.
(to be continued)
Bài kế: Enter Kwangya - Episode Y: At the beginning, girls are created
Đăng ký để đọc thêm các bài tiếp theo:
Phải đăng nhập và thả tim cho bài viết này.
Càng đọc em càng thích thú và khâm phục ấy. Với những manh mối nhỏ dễ bị bỏ qua đấy mà chị phát hiện, rồi lại tìm được chúng refer cho câu chuyện, rồi hơn nữa chị lại xâu chuỗi chúng với nhau.
Mà nhờ đọc bài này em mới chú ý tới concept AI. Vũ trụ câu chuyện của SM không có mấy nhà làm được như vậy.
Mà bây giờ có SM đi theo concept futuristic thôi ha chị. Em không biết lắm nhưng thấy mấy concept về tương lai, robot, AI, cyber punk bùng nổ mạnh vào thập niên 80s, 90s, và đầu 2000. Sau đó thì giảm dần nhường chỗ cho mấy nội dung thiên về kiểu như phản ánh xã hội hiện tại hoặc cái gì đó về lịch sử quá khứ hơn. Em thấy vậy do truyện tranh Nhật Bản hay phim ảnh khi tìm truyện, phim hay về đề tài tương lai thì toàn mấy tựa của quá khứ xuất hiện ấy. Với những tựa truyện, phim nổi tiếng bây giờ không có concept này. Mà không phải bây giờ càng tiến bộ về công nghệ hơn hồi 80s, 90s sao?
Nên em thấy bất ngờ vì đây là concept của SM hiện nay mà không biết là nó có ẩn dụ hay như vậy.